Wednesday, March 25, 2015

Lịch Sử một Chuyện Tình

.                                                                                                                                                                                             



                     Dạ Cổ Hoài Lang
                           -nối i nỗi nhớ…

                                                                                                         Tùy Bút *  Phạm Bá 

Không phải một sự ngẫu nhiên mà người viết có thể viết về chuyện tình của một bài ca vọng cổ đã đi vào lịch sử “Tài tử đờn ca Nam Bộ”. Cũng chẳng phải là người viết sinh trưởng từ vùng đất hiền hoà Phương Nam, nắng sớm mưa chiều, nhưng người viết đã được lớn lên trong cái nôi đồng rộng sông dài, đã khiến một tâm hồn vốn mến yêu văn nghệ nhất là thú cầm ca, lại một lần lạc vào những âm thanh – nơi những tấu khúc của Chín Con Rồng đã tạo ra bản giao hưởng Biển Đông, khi  Thanh Hương, người nghệ sĩ cải lương hay nhất của sân khấu cổ nhạc Miền Bắc bây giờ cất tiếng ca khiến bao người phải bùi ngùi cảm động khi người nghệ sĩ xuống sáu câu vọng cổ nghe ra thật là “mùi”. Từ phong cách trình diễn, nâng niu từng cung bậc của ca từ đến chất giọng ngọt ngào phát ra từ một nghệ sĩ có tên tuổi trên sân khấu nhà hát Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô – nguyên là dấu ấn cuối cùng của Đoàn Kim Chung trước năm 1954 để lại, đã dạt dào xâm lấn tâm hồn tôi. Phần vì trong bài ca có câu “Từ là từ phu tướng, bửu sắc kiếm phong lên đàng…”, khiến tôi phải suy tư về đề tài của bài viết: “Dạ cổ hoài lang” (Đêm xưa nhớ chàng)
Đôi giòng lịch sử …
Tương truyền vào một đêm cuối năm đầu thế kỷ 20 những âm thanh da diết như lén thoát ra từ những ngón tay vàng qua tiếng nguyệt cầm điêu luyện của Sáu Lầu. Tâm trạng và hình ảnh người chinh phụ trong phút giây bịn rịn tiễn đưa chồng ra ngoài quan ải trong Chinh Phụ Ngâm Khúc như đã vận vào người nghệ sĩ:
          Hà-lương chia rẽ đường này
          Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi…(câu 43, 44)
Và còn hơn thế nữa, người nghệ sĩ còn liên tưởng đến sự tích bài thơ “Chức Cẩm Hồi Vân” 1, qua tâm trạng của nàng Tô Huệ - vợ Vương Thao 2, khi chồng nàng trấn đóng ngoài quan ải. Nàng năm canh thui thủi một mình ngóng trông tin chồng như mong tin nhạn. Trong nỗi buồn đơn côi ấy đã khiến nàng làm một bài thơ theo thể Thất Ngôn Cổ Phong 280 câu thêu lên gấm đem dâng Vua. Vì quá cảm động khi xem đến bài thơ, thương xót người vợ hiền đêm đêm một mình một bóng, Vua đã ban chỉ sớm cho vợ chồng xum họp. Rồi đến một ngày, như cố dồn nén tất cả cảm xúc của mình để đếm từng niềm riêng nỗi nhớ, Cao Văn Lầu đã phải viết ra ca từ “Dạ Cổ Hoài Lang”:
                   Từ là từ phu tướng
Đã đăng trong
 Báo Xuân BÚT TRE Ất Mùi 2015 AZ
                   Bảo sắc kiếm phong lên đàng
                   Vào ra luống trông tin chàng
                   Đêm năm canh mơ màng
                   Em luống trông tin nhạn
                   Ôi ! gan vàng quặn đau
                   Đường dầu xa ong bướm
                   Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
                   Còn đêm luống trông tin nhạn
                   Ngày mòn mỏi như đá vọng phu
                   Vọng phu vọng, luống trông tin chàng
                   Lòng tin chớ phụ phàng
                   Chàng hỡi chàng có hay
                   Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
                   Biết bao thuở đó đây xum vầy
                   Duyên sắt cầm đừng lạt phai
                   Thiếp cũng nguyện cho chàng
                   Nguyện cho chàng hai chữ bình an
                   Mau trở lại gia đình
                   Cho én nhạn hợp đôi.

Tiếng nguyệt cầm vừa dứt chính là nỗi niềm ray rứt của kẻ ở người đi giữa Sáu Lầu và vợ trong nỗi bất hạnh chia lìa của một cặp vợ chồng chưa có con kế tự.

Sáu Lầu tên thực là Cao Văn Lầu, sinh năm 1890, là con thứ sáu trong một gia đình nghèo khó ở đất Long An. Vì hoàn cảnh gia đình bần hàn quẫn bách, cha ông đã quyết định đưa cả gia đình về Bạc Liêu lập nghiệp. Ông thân sinh ra Sáu Lầu vốn là người ưa thích nghiệp cầm ca, đã quyết định gửi Sáu Lầu đến thụ giáo tại một lò cổ nhạc.
Vào đầu thế kỷ 20, phong trào đàn ca tài tử Nam Bộ ở Bạc Liêu hơn hẳn các phong trào trong vùng Miền Tây và Miền Đông và ông thân sinh đã quyết định gửi ông đến lò cổ nhạc nổi tiếng nhất của ông Nhạc Khị - Lê Tài Khị, được người đương thời tôn vinh là người chơi nhạc tài tử giỏi nhất. Từ đó, Sáu Lầu trở thành người học trò xuất sắc có một không hai của Lò cổ nhạc ông Nhạc Khị.
Càng học, Sáu Lầu càng tỏ ra là một nhân tài có thể kế nghiệp thầy Nhạc Khị.
Ông được nhạc sư cho điều khiển ban Nhạc Lễ lớn cùng với các thầy đờn từ Lục Tỉnh kéo về thi thố tài năng. Có lần thầy Nhạc Khị đã phải thốt lên: “Thằng Lầu xứng đáng thay mặt thầy đi thi, mà không phải lo lắng gì cả.”
Nếu cung đàn và tiếng hát của Sáu Lầu đã ngự trị những sân chơi điệu nghệ thì đường tình ái của ông lại gặp nhiều trắc trở dở dang.
Số là thầy Nhạc Khị có cô con gái tên là Hai Thân, sắc nước tài cao, đã khiến Sáu Lầu yêu trộm nhớ thầm. Như một duyên tình từ tiền kiếp đã đưa đẩy đến ông như chuyện kể của người xưa: “Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách; Sắc bất ba đào dị nịch nhân”. 3
 Nhưng khốn nỗi, trong cảnh nhà nghèo khó, biết mộng ước khó thành, Sáu Lầu đành lặng lẽ bỏ đi, lánh xa người mình thương, giã từ thầy học…
Thời gian sau, Sáu Lầu lập riêng một ban Nhạc Lễ để phục vụ địa phương lối xóm. Chẳng bao lâu, tiêng tăm ban nhạc của ông đồn vang khắp miền Lục Tỉnh.
Vào năm 1916, cô Hai Thân bước lên xe hoa về nhà chồng và cùng lúc Sáu Lầu cũng được gia đình cưới cô Trần Thị Tấn về làm vợ. Cuộc hôn nhân được làng trên xóm dưới ngợi khen là xứng đôi vừa lứa. Nhưng lấy nhau được ba năm, vợ chồng vẫn chưa có lấy một mụn con để nối dõi tông đường, khiến mẹ Sáu Lầu đay nghiến nàng dâu: “Tam niên vô tử bất thành thê”. Dù vợ chồng thương yêu nhau hết mực, nhưng không thể sống trong cái cảnh khắc nghiệt mẹ chồng nàng dâu, vợ ông đã bỏ trốn về nhà với cha mẹ đẻ. Ai cũng tưởng vậy. Nhưng thực sự nàng không về nhà cha mẹ mình mà xin vào làm công quả cho một ngôi chùa trong vùng. Còn ông cũng bị me mình canh chừng như bị quản thúc tại gia khiến không dễ gì thoát ra đi tìm vợ được. Rồi một đêm cuối năm, trong cái cô đơn lạnh lẽo nơi thư phòng, phần thương thân vợ, phần tủi phận mình, Sáu Lầu đã gửi lòng vào tiếng nguyệt cầm ai oán: “Dạ cổ hoài lang”. Có ngờ đâu bản Dạ Cổ Hoài Lang ra đời lại vang dội khắp vùng Bạc Liêu thời đó. Nhưng duyên tình “đôi ta tình nặng nghĩa dày, có xa nhau đi nữa ba vạn chin ngàn ngày mới xa” (cd). Rồi một ngày, bên “cây đa bến cũ, con đò năm xưa”, vợ chồng lại trùng phùng hạnh ngộ, vào lúc vợ ông thọ thai sau hạ sanh được một bé trai. Cả tỉnh Bạc Liêu lại thêm một lần truyền khẩu: “Con thầy đờn có khác…đợi cho tía viết xong bản nhạc rồi mới chịu ra đời”. Sau đó gia đình lại xum họp an vui và hai người sau có với nhau 7 mụn con, 5 trai 2 gái.
Đó là tình sử bài “Dạ cổ hoài lang”.

 
          Cho dù cùng thời với ông Sáu Lầu còn có nhiều nhạc sĩ nổi danh khác như Mộng Văn, Ba Chột…với những bản Tứ Bửu Liên Thành, …từ Cổ Bản sang Nam Xuân, từ Liên Nam sang Văn Thiên Tường và buồn da diết hơn nữa trong khúc Phượng Cầu Hoàng, như bài Dạ Cổ Hoài Lang quả đã làm phong phú thêm cho dòng âm nhạc tài tử Nam Bộ và là một bài cho đến bây giờ buớc qua nhiều thiên niên kỷ, vẫn được tôn vinh là tiền thân của Sáu câu Vọng Cổ - một dòng âm nhạc truyền thống của đất Phương Nam.

                                                    
Nhạc sĩ Sáu Lầu và chính những nhạc sĩ đương thời nói trên là những người tiên phong làm rạng danh nền cổ nhạc Việt Nam vào những năm 1935-1938 và nhất là sau ngày chiến tranh chấm dứt, thú đờn ca tài tử vừa cao sang vừa dân dã đã đi vào lòng dân tộc nay lại được thăng hoa cùng với những tấu khúc của Cửu Long Giang.
Ước mong một ngày nào đó không xa, người viết được làm một chuyến lãng du về Miền Tây, được đứng bên bờ sông đỏ ngầu phù sa nước lớn, được lắng nghe tiếng đờn ca ngọt lịm của những tốp ca tài tử, cùng để được thưởng thức khô mực và men cay đế Gò Đen…
          Mong lắm thay !
                                                                                                          Phạm Bá                                                                   
Tài liệu tham khảo:
- Nam Bộ Xưa và Nay                  - Tự Điển Thành Ngữ Điển Tích    
- Nghệ thuật Sân Khấu VN.          - Và một số tư liệu khác.
  1. Dệt bài thơ lên gấm dâng Vua, xin cho chồng được trở về.
2.   Có sách chép là Đậu Thao
3.   Đối đáp văn học đời Nhà Lê giữa thầy đồ Đàm Thuận Huy và trò Nguyễn Giản Thanh
      vì Giản Thanh đã say mê con gái lớn của Thầy Đồ. Một chiều vào giờ tan học, đúng
      vào lúc trời mưa to gió lớn, học trò không ai ra về được, Thầy ra câu đối:
     Thầy:  Mưa không phải là khoá cửa, mà vẫn lưu được khách ở lại trong nhà.
     Trò  :   Sắc đẹp của đàn bà không phải là sóng nước mà vẫn nhận chìm được người ta.
     
     

2 comments:

  1. Bay Hoang
    Bay Hoang 3:46am Mar 29
    Cám ơn bạn Luân đã viết 1 bài rất cảm động về mối tình của Ông Vua Cải Lương Sáu Lầu ! Là 1 người có Bà Xã là người Gò Công rất gần với xứ sở Bạc Liêu, chúng tôi vẫn thường được thưởng thức những vở tuồng Cải Lương nổi tiếng trước 75 do những Nghệ Sĩ vang bóng 1 Thời như Thanh Nga, Thành Được, Út Trà Ôn, Bạch Tuyết và Hùng Cường ! Tháp tùng Bà Xã đi coi tuồng Cải Lương riết rồi cũng quen dần và tâm hồn cũng thấm những giai điệu Miền Nam lúc nào không hay ! Là dân "Bắc Kỳ" nhưng bạn Luân đã nghiên cứu rất kỹ để viết về Cụ Sáu Lầu nổi tiếng của miền Nam !

    ReplyDelete
  2. Một đoản văn rất hay va truyền cảm, Cũng là một gợi nhớ về quê hương của những kẻ xa nhà, còn một chút gì để nhớ, để thương về quê cũ-
    Đỗ Lý VN

    ReplyDelete